Đối tác - Liên kết

2/4/1975 Giải phóng Nha Trang - Việt Nam ( hành trình )

Thảo luận trong 'Giới thiệu Nha Trang - Khánh Hoà' bắt đầu bởi PhuocLong007, 26/3/08.

  1. PhuocLong007

    PhuocLong007 Tổ chức sự kiện NTC

    Tham gia ngày:
    22/9/07
    Bài viết:
    3,071
    Đã được thích:
    9
    Điểm thành tích:
    38
    Tiến trình 30.4 kết thúc giải phóng đất nước Việt Nam

    Hành trình đát nước giải phóng :

    Nhằm thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị là giải phóng miền Nam trong năm 1975, ta đã mở đầu chiến cuộc bằng đòn chiến lược then chốt ở Tây Nguyên tháng 3/1975.

    Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng, vì vậy Mỹ - ngụy đã biến Tây Nguyên thành một căn cứ chiến lược lớn, hòng đè bẹp phong trào cách mạng ở cả 3 nước Đông Dương, ngăn chặn sự chi viện của ta từ miền Bắc vào và từ rừng núi xuống đồng bằng. Trong chiến dịch Tây Nguyên, ta đã tiến hành một loạt biện pháp nghi binh công phu và tích cực để thu hút và giam chân quân chủ lực cơ động của địch tại Bắc Tây Nguyên, trong khi ta tập trung lực lượng tiến công Nam Tây Nguyên khiến địch hoàn toàn bất ngờ và nhanh chóng thất bại. Ngày 4-3-1975, chiến dịch Tây Nguyên bắt đầu. Ngày 24-3 chiến dịch kết thúc.

    Ngày 11-3, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột.

    Trước sự tấn công bất ngờ và quá mạnh của ta, bộ phận đầu não của địch quyết định bỏ Tây Nguyên rút quân thật nhanh và bất ngờ theo đường số 7 về giữ miền duyên hải Trung Bộ để bảo toàn lực lượng.

    Ngày 16-3, giải phóng Kon Tum, thị xã Pleiku.

    Báo chí và đài phát thanh phương Tây đổ thêm chất xúc tác vào quá trình sụp đổ của quân địch. Đài BBC tường thuật chi tiết cuộc rút chạy, với những hình ảnh thảm bại tại Pleiku, Kon Tum và trên đường số 7. Đài Tiếng nói Hoa Kỳ loan tin Quốc hội Mỹ bác bỏ viện trợ cho chính quyền Sài Gòn. Những thông tin trên càng khiến địch suy sụp tinh thần.

    Tại mặt trận Trị - Thiên, quân ta phá vỡ một mảng lớn hệ thống phòng ngự của địch tại đường 14, thu hút và giam chân địch tại Tây-Nam Thừa Thiên, diệt cứ điểm Chúc Mao, uy hiếp Tây-Bắc Huế.

    Ở Đông Nam Bộ ta mở các đợt tiến công trên đường 13, đường 20 và một đoạn trên quốc lộ 1 (Long Khánh - Rừng Lá). Ta chiếm Dầu Tiếng, suối Ông Hùng, Cầu Khởi (Tây-Bắc Sài Gòn), Định Quán (Đông-Bắc Sài Gòn). Tại Tây Nam bộ, ta mở rộng một số vùng giải phóng, lấn sâu vào các khu vực trọng yếu.

    Ngày 19-3-1975, giải phóng thị xã và toàn bộ tỉnh Quảng Trị.

    Bộ Chính trị hạ quyết tâm chuyển cuộc tiến công chiến lược thành cuộc Tổng tiến công chiến lược, hoàn thành kế hoạch hai năm 1975-1976 ngay trong năm 1975. Phương hướng tiến công chiến lược chủ yếu được xác định là Sài Gòn.

    Địch đã quyết định bỏ Trị - Thiên - Huế về giữ Đà Nẵng. Nhân thời cơ này, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ thị Quân đoàn 2 của ta nhanh chóng cắt đường số 1, không cho địch kéo về co cụm tại Đà Nẵng. Trong thời điểm này tại Tây Nguyên ta tiếp tục truy kích địch và giải phóng các tỉnh Tây Nguyên. Ở mặt trận Huế-Đà Nẵng, ta phát động chiến tranh nhân dân ở đồng bằng phối hợp nhiều lực lượng chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích… tiến công địch; tích cực chuẩn bị mọi mặt để giải phóng Huế.

    Ngày 21-3-1975, từ 3 hướng Bắc, Tây và Nam, các lực lượng quân khu Trị Thiên và Quân đoàn 2 của ta đồng loạt tiến công các tuyến phòng thủ của địch, hình thành nhiều mũi tấn công vào thành phố Huế mở đầu chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Ngày 22-3-1975, giải phóng thành phố Huế. Ngày 26-3-1975, phối hợp với quần chúng nổi dậy, quân ta giải phóng hoàn toàn cố đô Huế và tỉnh Thừa Thiên.

    Ngày 24-3-1975, tỉnh Quảng Ngãi được hoàn toàn giải phóng.

    Nhận định được tình hình địch, ngày 27-3-1975, đồng chí Lê Duẩn điện cho các đồng chí Võ Chí Công và Chu Huy Mân: “…Chiến thắng oanh liệt ở Buôn Ma Thuột và Tây Nguyên đã tạo ra thời cơ giải phóng Đà Nẵng. Ta phải tập trung lực lượng từ hai phía, từ Thừa Thiên-Huế đánh vào và từ Nam-Ngãi đánh ra, nhanh chóng tiêu diệt sinh lực địch, không cho chúng rút chạy để co cụm về giữ Sài Gòn. Trong lúc này thời gian là lực lượng. Phải hành động hết sức táo bạo, bất ngờ, làm cho địch không kịp trở tay”.

    Đến 15 giờ ngày 29-3 ta đã giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng sau 33 giờ tấn công.

    Ở mặt trận phía Nam, quân và dân Bình Long tiến công và nổi dậy giải phóng toàn bộ tỉnh Bình Long. Quân và dân các tỉnh Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Long An, Long Khánh, Bình Tuy tiến công và nổi dậy tiêu diệt chi khu quân sự, quận lỵ Dầu Tiếng, Định Quán, Hoài Đức và một loạt các căn cứ quân sự… giải phóng một vùng rộng lớn liên hoàn ở phía Bắc và Tây-Bắc Sài Gòn.

    Quân và dân ở ĐBSCL tiến công và nổi dậy làm chủ nhiều địa phương mở rộng vùng giải phóng. Trên hướng Kiến Tường-Long An, quân ta tiến công đánh thông hành lang Tây Ninh xuống Đồng Tháp Mười, làm chủ một vùng rộng lớn ở bờ Tây sông Vàm Cỏ Đông cắt đứt đường 4, tạo bàn đạp tấn công Sài Gòn từ hướng Tây.

    Như vậy phối hợp với chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng, quân và dân ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch khép chặt vòng vây, tạo thế cho các cánh quân tiến công Sài Gòn - Gia Định.

    Sáng 31-3, Bộ Chính trị họp mở rộng. Đây là cuộc họp lịch sử bàn về đòn chiến lược thứ ba, đòn cuối cùng của cuộc tổng tiến công và nổi dậy. Hội nghị nhất trí nhận định: Ta hơn hẳn địch cả về thế chiến lược lẫn lực lượng quân sự, chính trị. Dù Mỹ có tăng viện cũng không thể cứu vãn sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn. Bộ Chính trị khẳng định quyết tâm thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất. Tốt nhất kết thúc trong tháng 4 năm 1975. Phải hành động “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ”.

    Với quyết định trên, các cánh quân của ta thần tốc đổ vào chiến trường trọng điểm. Từ hậu phương lớn miền Bắc, Quân đoàn 1 tiến vào miền Nam không kể ngày đêm. Hậu phương miền Bắc huy động tối đa sức người sức của cho trận đấu cuối cùng - tấn công đầu não quân ngụy, giải phóng Sài Gòn.

    Sư đoàn 3 chủ lực Quân khu 5 và Sư đoàn 968 cơ động theo đường số 19 đập tan các chốt phòng ngự của Sư đoàn 22 ngụy, phối hợp lực lượng địa phương giải phóng thị xã Quy Nhơn và toàn tỉnh Bình Định vào ngày 31-3-1975.

    Ngày 1-4-1975, Sư đoàn 320 tiến quân theo đường số 7, cùng lực lượng vũ trang tỉnh Phú Yên giải phóng thị xã Tuy Hòa.

    Ngày 2-4-1975, quân ta giải phóng thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng, tiến ra tấn công Đà Lạt. 3-4-1975, thành phố Đà Lạt được giải phóng.

    Ngày 2 và 3-4-1975, thành phố Nha Trang tỉnh Khánh Hòa và Quân cảng Cam Ranh được giải phóng.

    Sau khi thất bại nặng nề tại Đà Nẵng, địch đã tổ chức phòng thủ Quân khu 3 và Sài Gòn theo 3 tuyến: Tuyến phòng ngự từ xa, tuyến ngoại vi Sài Gòn và tuyến nội đô.

    Ngày 5-4-1975, tổng thống ngụy Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh củng cố khẩn cấp các tuyến phòng thủ. Tuyến phòng ngự từ xa Phan Rang - Xuân Lộc - Tây Ninh và tuyến phòng ngự ngoại vi Sài Gòn được địch hết sức chú trọng.

    Lúc này, thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, các cánh quân của ta hành quân thần tốc ngày đêm đến các điểm tập kết để thực hiện trận đánh cuối cùng vào sào huyệt địch. Trên trục đường số 1, quân ta đã tiến gần Phan Rang. Trên trục đường 20 quân ta sau khi giải phóng Lâm Đồng, Đà Lạt, Tuyên Đức đã tiến xuống gần Kiệm Tân.

    Ngày 6-4-1975, tại chiến trường miền Nam, Bộ Chính trị công bố quyết định thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch Sài Gòn- Gia Định: Đại tướng Văn Tiến Dũng là tư lệnh; đồng chí Phạm Hùng, chính ủy; Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Lê Đức Anh, Trung tướng Đinh Đức Thiện là phó tư lệnh. Đồng chí Lê Đức Thọ tham gia Trung ương Cục và Đảng ủy mặt trận. Trong dịp này, Trung ương Cục phân công Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh đặc trách phong trào nổi dậy của quần chúng, nhất là ở Sài Gòn. Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục Võ Văn Kiệt chỉ đạo việc tiếp quản thành phố. Đảng ủy và Bộ Chỉ huy chiến dịch Sài Gòn - Gia Định khẩn trương bắt tay vào việc.

    Ngày 7-4-1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng điện khẩn vào chiến trường: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút. Xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”.

    Trên hai trục chính là đường số 1 và đường Trường Sơn, với tinh thần quyết chiến, quyết thắng Đoàn 559 tổ chức khẩn trương với sự hỗ trợ của Quân khu 5 đảm bảo công tác hậu cần cho chiến dịch mặc dù địch ở trên bộ, trên không và ngoài biển ra sức ngăn chặn, bắn phá suốt đêm ngày. Quân no, xe pháo đủ nhiên liệu, đạn dược, bộ đội được nhân dân động viên, giúp đỡ, tốc độ hành quân lại càng tăng nhanh.

    Cùng ngày, Thường vụ Trung ương Cục và Quân ủy Miền thông qua kế hoạch tiến công quân sự trên mặt trận Sài Gòn.

    Vào thời điểm này, địch điều toàn bộ Sư đoàn 18, tăng cường lữ kỵ binh, các liên đoàn biệt động chạy về từ Quân khu 1, Quân khu 2 bảo vệ Xuân Lộc. Địch huy động đến mức cao nhất không quân còn lại ở Biên Hòa, Tân Sơn Nhất và Cần Thơ.

    Ngày 14-4-1975, Bộ chỉ huy chiến dịch nhận được điện số 37 TK với nội dung: Bộ Chính trị đặt tên cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”.

    Ngày 18-4-1975, giải phóng thị xã Phan Thiết và toàn tỉnh Bình Thuận.

    Đại sứ Mỹ Martin mật báo tình hình tuyệt vọng về Washington: “Các đơn vị đối phương đang hội tụ về khu vực Sài Gòn từ mọi hướng với một lực lượng hậu bị to lớn hơn lực lượng chính phủ (ngụy quyền Sài Gòn) rất nhiều...” Trước tình hình đó, chính quyền Mỹ ra lệnh di tản người Mỹ ở Sài Gòn với một lực lượng lớn hải quân và không quân gồm 35 tàu chiến, có 4 tàu sân bay và 100 máy bay bắt đầu rút từ ngày 21-4-1975. Trong khi rút chạy, Mỹ còn có kế hoạch đưa hàng ngàn trẻ em Việt Nam về Mỹ với mục đích gây xúc động dư luận, về lâu dài làm cho số trẻ em này quên Tổ quốc, chống lại Tổ quốc sau này. Chúng còn kích động hàng chục ngàn người Việt Nam tỵ nạn theo chúng.

    Đến ngày 26-4 đơn vị cuối cùng tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh đã vào đến vị trí tập kết, sẵn sàng chờ lệnh tiến công vào Sài Gòn.

    Đêm 24-4-1975, Bộ chỉ huy chiến dịch hành quân đến Căm Xe, ở tây-bắc Bến Cát, xây dựng Sở chỉ huy tiền phương của chiến dịch.

    Tối 28-4 Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn họp đánh giá tình hình trên toàn mặt trận, bàn cách đánh sao cho thật nhanh, chắc thắng, đập tan ngay hệ thống tổ chức ngụy quân, ngụy quyền đồng thời phải bảo đảm thành phố ít bị tàn phá, nhân dân thành phố ít bị thiệt hại về người và của. Cuối cuộc họp Đại tướng - Tư lệnh chiến dịch Văn Tiến Dũng ra lệnh “Tổng công kích trên toàn mặt trận vào 5h sáng ngày 29-4-1975”. Đúng giờ, pháo ta ào ạt dội lửa xuống các căn cứ quân sự ngụy trong thành phố.

    Ta đang đánh chiếm căn cứ Đồng Dù, Trảng Bàng, địch phản kích quyết liệt. Lui xuống tây-nam, Sư đoàn 9 đã vượt sông Vàm Cỏ Đông từ đêm 28 rạng sáng 29-4, vào lúc 5h30 ngày 29-4 đã chiếm được ngã ba Vĩnh Lộc, Bà Lác trên đường tiến công. Đúng 5 giờ, pháo ta ở Nhơn Trạch cũng đã bắt đầu nhả đạn vào sân bay Tân Sơn Nhất

    Suốt đêm 29-4, Tin chiến sự từ khắp các mặt trận báo về. Tin tức được xác nhận, tập thể lãnh đạo phân tích, bàn bạc nhanh chóng. Rồi các chỉ thị, mệnh lệnh, các biện pháp cụ thể được truyền xuống các binh đoàn. 5h30 sáng ngày 30-4, quân ta từ 4 hướng đồng loạt tổng tiến công vào Sài Gòn. Cả thành phố rung chuyển. Tất cả các cầu và đầu mối giao thông quan trọng trong thành phố đã được các đơn vị đặc công đánh chiếm trước và khống chế. Địch chống cự phản kích yếu ớt, thậm chí có những căn cứ án binh bất động, như chờ quân Giải phóng tới tiếp quản. Các đơn vị xe tăng, thiết giáp và xe cơ giới quân ta ào ào tiến vào như vũ bão, đi tới đâu cờ đỏ sao vàng và cờ của Mặt trận giải phóng dân tộc tung bay tới đó.

    Mũi thọc sâu của Quân đoàn 2 nhanh chóng qua cầu Thị Nghè, tiến thẳng vào dinh Độc Lập. Xe tăng ta húc đổ cổng sắt dinh Độc Lập. Trung úy Bùi Quang Thận cùng một số chiến sĩ nhanh chóng lao lên ban công tầng thượng của tòa nhà giật bỏ lá cờ ngụy và kéo lá cờ giải phóng lên cột cờ cao nhất của dinh Độc Lập vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975.

    Trong khi đó Tổng thống ngụy Dương Văn Minh chấp nhận trao khẩu *** ngắn cho đồng chí Phạm Xuân Thệ và buộc phải đến đài phát thanh đọc bản tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.

    Miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, những chàng trai mặc áo lính giờ đây “*** gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”.


    Nguồn ( xemsach)